Thursday, October 2, 2025

P1 -Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – US Special Force Group in Viet Nam war

 

Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt NamUS Special Force Group hay lính mũ nồi xanh được biết đến nhiều qua những căn cứ quân sự người Thượng và các hoạt động biệt kích, đột nhập ,…. trên vùng Tây Nguyên dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh

Năm 1965, Mỹ bắt đầu đổ quân vào Việt Nam. Tình hình chiến sự ở Việt Nam đang theo chiều hướng phức tạp và không theo cuộc chiến tranh quy ước nào. Tình hình càng nghiêm trọng ở các khu vực dọc biên giới Việt Lào và Việt Nam Campuchia do quân Giải Phóng theo con đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập và đưa người và vũ khí, phương tiện chiến tranh từ miền Bắc vào miền Nam.

Theo yêu cầu của Tham Mưu Trưởng Quân Đội Mỹ, 1 nhóm các chuyên viên sĩ quan kỳ cựu được lựa chọn để tiến hành thu thập các tài liệu để phục vụ cho ban tham mưu của quân đội Mỹ. Thiếu tá Francis John Kelly – thành viên của trường đào tạo sĩ quan Tham Mưu – trong giai đoạn 1967 là chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – lực lượng số 5 – 5th Sepecial Force group. Ông cùng với thiếu tướng Vern L. Bowyers chịu trách nhiệm biên soạn và ghi chép các hoạt động của lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam

BỐI CẢNH

Từ những năm 1957, các binh sĩ thuộc lực lượng đặc biệt Mỹ đã đến Việt Nam trong vai trò cố vấn, huấn luyện quân đội miền Nam Việt Nam và chủ yếu khởi đầu ở binh chủng Nhảy Dù. Đến năm 1965-1968, lực lượng này chủ yếu chịu trách nhiệm huấn luyện và đào tạo cho 1 lực lượng khoảng 40.000 người thuộc các đơn vị bán vũ trang và khoảng 40.000 người thuộc lực lượng Địa Phương Quân. Đây là quá trình thay đổi từ các chính sách, kế hoạch, chương trình, … mà quân đội Mỹ đưa ra sau đó rút ra các bài học từ bối cảnh thực tế trong chiến tranh Việt Nam

PHẦN 1

GIAI ĐOẠN 1961-1965

Chương I 

GIỚI THIỆU

Tháng 2 năm 1950, Mỹ công nhận tình trạng nửa độc lập ở Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp và bắt đầu hỗ trợ Pháp chống lại chế độ Cộng Sản. Tháng 5 năm 1954, Pháp bị Việt Minh đánh bại ở Điện Biên Phủ và Việt Nam bị chia làm 2 miền. Trong 4 năm đó, các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ đã có cơ hội nghiên cứu và quen dần với cuộc ở Việt Nam và lực lượng Đặc Biệt cũng ra đời

Nguồn gốc của lực lượng đặc biệt

Lực lượng đặc nhiệm số 1 – 1st Special Service Force trong thế chiến thứ 2 là tên gọi của 1 nhóm lực lượng Mỹ là tiền thân của lực lượng đặc biệt Mỹ – US Special Force sau này. Mùa xuân năm 1942, chỉ huy các chiến dịch hỗn hợp Anh là phó đô đốc Louis Mountbatten đã gửi đến Tham Mưu Trưởng quân đội Mỹ là thống tướng George C. Marshall 1 kế hoạch của 1 công dân Anh tên Geoffrey N. Pike. Kế hoạch này nhằm tấn công và phá hoại các sơ sở sản xuất điện Hydro của Đức Quốc Xã ở Na uy. Các nhà nghiên cứu Mỹ đã chế tạo chiếc xe tuyết thích hợp cho vùng núi tuyết ở Na Uy và đặt tên là M29. Tướng Marshall đã giao cho trung tá Robert Tryon Frederick tuyển chọn các binh sĩ người Canada và Mỹ để thực hiện nhiệm vụ này và đặt tên là Lực lượng đặc nhiệm số 1 – 1st Special Service Force
Nón Beret xanh, biểu tượng của lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam - Lực lượng mũ nồi xanh - Green Beret - the symbol of US Special Force Group in Viet Nam war
Nón Beret xanh, biểu tượng của lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – Lực lượng mũ nồi xanh – Green Beret – the symbol of US Special Force Group in Viet Nam war

Sơ khai, Lực lượng đặc nhiệm số 1 của trung tá Frederick là một binh chủng độc lập, được biên chế làm 3 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 2 tiểu đoàn, phù hiệu là mũi tên chéo. Đơn vị này được huấn luyện nghiêm ngặt về các hoạt động như đặt chất nổ, leo trèo, đổ bộ, bơi lội, chiến đấu độc lập, … với các kỹ năng cơ bản dựa trên cách huấn luyện của binh chủng nhảy dù. Đơn vị này sau đó đã tác chiến nhiều nơi ở Bắc Phi, miền nam nước Pháp, Italia và lập nhiều chiến công vang dội sau đó được mệnh danh là “lữ đoàn của Quỷ” – The Devil’s Brigade

Sau chiến tranh, lực lượng đặc nhiệm Mỹ được cải danh và biên chế lại. Ngày 20 tháng 6 năm 1952, đơn vị đặc biệt Mỹ đầu tiên được thành lập là Nhóm số 10 – 10th Special Force Group ở căn cứ Fort Bragg – bang North Carolina. Ngày 25 tháng 9 năm 1953, đơn vị kế tiếp được thành lập là Nhóm số 77 – 77th Special Force Group cũng ở căn cứ Fort Bragg

Tháng 10 năm 1954, tổng thống Mỹ là Dwight D. Eisenhower bắt đầu việt trợ cho miền Nam Việt Nam của chính phủ Ngô Đình Diệm. Lúc này Trung Quốc và Liên Xô cũng bắt đầu viện trợ cho miền Bắc Việt Nam. Tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm trợ thành tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam

Trong thời gian này, Mỹ chủ yếu viện trợ vũ khí, các cố vấn quân sự, .. Ngày 24 tháng 6 năm 1957, Nhóm đặc biệt số 1 của Mỹ được thành lập ở Okinawa, Nhật Bản và lực lượng đặc biệt Mỹ tham chiến ở Việt NamUS Special Force Group in Viet Nam war  chính thức vào tháng 10 năm 1957 khi nhóm số 1 gửi 1 đơn vị đến Việt Nam để huấn luyện 58 binh sĩ Biệt Kích Việt Nam ở trung tâm Huấn Luyện Biệt Kích ở Nha Trang. Đây chính là lực lượng nòng cốt cho binh chủng lực lượng đặc biệt của Việt Nam Cộng Hòa

Giai đoạn 1959 – 1960, lực lượng quân Giải Phóng hay còn gọi là Việt Cộng ngày càng mạnh, các trận đánh giữa quân Giải Phóng ngày càng gia tăng từ 180 trận vào tháng 1 năm 1960 tăng lên 545 trận trong tháng 9 cùng năm. Giữa tháng 6 năm 1960, quân Mỹ đã gửi đến 30 binh sĩ thuộc lực lượng đặc biệt từ căn cứ Fort Bragg đến Việt Nam với vai trò cố vấn cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa

Ngày 21 tháng 9 năm 1961, tổng thống Mỹ John F. Kennedy quyết định gia tăng viện trợ về quân sự và kinh tế cho chính quyền miền Nam Việt Nam nhằm ngăn chận quân Giải Phóng. Lực lượng đặc biệt thuộc nhóm 5th – 5th Special Force Group được thành lập. Đây chính là lực lượng sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ các hoạt động của binh chủng lực lượng đặc biệt ở miền Nam Việt Nam. Tháng 8 năm 1961, tổng thống Mỹ Kennedy đã ghé thăm căn cứ huấn luyện lực lượng đặc biệt và tại đây, được sự chấp thuận của tổng thống, binh chủng này đã dùng nón màu xanh – Green Beret làm biểu tượng binh chủng.

P2- Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – US Special Force Group in Viet Nam war – P2

 

Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt NamUS Special Force Group in Vietnam war hay lính mũ nồi xanh là các đơn vị tinh nhuệ chịu trách nhiệm hoạt động ở các vùng giáp biên giới, lập các căn cứ quân sự và huấn luyện lực lượng chiến đấu bản địa chống quân Giải Phóng

Đến năm 1961, quân đội Sài Gòn và chính phủ Mỹ phải đối mặt với sự nổi dậy ngày càng mạnh của quân Giải Phóng. Cả 2 chính phủ đều nhấn mạnh đến vấn đề cần tăng cường mạnh lực lượng quân đội. Bên cạnh việc phát triển lực lượng chính quy, chính phủ Mỹ đã cử các nhóm thuộc lực lượng Đặc Biệt MỹUS Special Force đến Việt Nam để hướng dẫn, đào tạo, huấn luyện các chương trình phát triển lực lượng bán vũ trang gọi là lực lượng Dân Sự Chiến Đấu – CIDG (Civilian Irregular Defense Group program) và sau này nhiệm vụ này trở thành nhiệm vụ chính yếu của lực lượng đặc biệt

Quan tâm đầu tiên được tập trung về người Thượng đang sống chủ yếu ở khu vực Cao Nguyên. Tháng 10 năm 1961, 1 nhóm binh sĩ Mỹ kèm các bác sĩ được gửi đến Buôn Enao – Buon Enao thuộc bộ tộc Rhade đang sống ở Đắc Lắc nhằm lôi kéo họ chống lại quân Giải Phóng. Việc thành công trong việc lôi kéo các tù trưởng bộ tộc Rhade trong việc thành lập các chương trình phòng vệ đã khiến lực lượng Đặc Biệt Mỹ đẩy mạnh chương trình này

Người Rhade hay người Ra Đê còn được gọi là người Ê Đê, người Đề Ga là một dân tộc vùng núi trải dài nhiều vùng thuộc cao nguyên Việt Nam, Lào, Campuchia và một phần Thái Lan. Người Pháp gọi các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là người Montagnard nghĩa là tộc người sống trên núi do đó người Việt khi dịch sang tiếng Việt trở thành người Thượng nghĩa là người sống trên núi

Năm 1962, tổng thống Kennedy ra lệnh hỗ trợ chính quyền miền Nam Việt Nam. Việc hỗ trợ này liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau từ bộ Tài Chính đến cả Bộ Quốc Phòng, cơ quan Tổng Tham Mưu, Cục tình báo CIA, … Tuy nhiên, lực lượng đặc biệt vẫn chỉ đang đóng vai trò không nhiều người biết trong cuộc chiến không chính quy

Về cơ chế, 1 nhóm lực lượng Đặc Biệt – Special Force Group được biên chế cơ bản như lực lượng nhảy dù bao gồm : 1 đại đội chỉ huy, 3 đại đội chiến đấu, 1 đại đội truyền tin và 1 đại đội hỗ trợ đường không. Bên trong đại đội chỉ huy sẽ còn các phòng ban, đơn vị hỗ trợ như Tâm Lý Chiến, phòng hành quân, hậu cần, quân y, ….

Từ thành công ở Buôn Enao năm 1961, lực lượng Đặc Biệt Mỹ đã nhanh chóng đẩy mạnh chương trình CIDG về phía Tây là các vùng giáp biên giới Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia và đến tháng 10 năm 1964, đã chính thức thành lập Nhóm 5 lực lượng đặc biệt – 5th Special Force Group với quân số 1.200 người

Có thể chia giai đoạn vừa qua làm 3 thời kỳ : Thời kỳ đầu : tháng 11 năm 1961 – tháng 11 năm 1962, Ủy Ban Hoa Kỳ – US Commission chịu trách nhiệm về chương trình CIDG. Từ tháng 9 năm 1962 – tháng 7 năm 1963, trách nhiệm về chương trình CIDG đã dần được cơ quan hỗ trợ Hoa Kỳ ở Việt Nam – MACV đảm trách. Từ tháng 7 năm 1963 về sau thì cơ quan MACV hoàn toàn chịu trách nhiệm

Từ năm 1961 đến năm 1965, lực lượng đặc biệt Mỹ đã thành lập hơn 80 căn cứ đặc việt hay trại đặc biệt thuộc chương trình CIDG. Phần lớn các trại này nằm ở các khu vực không thuộc chính quyền miền Nam kiểm soát. Mỗi trại là một khu phòng vệ, các binh sĩ là người địa phương, được lực lượng đặc biệt Mỹ vũ trang vũ khí, huấn luyện, … để chống lại quân Giải Phóng

Ngày 24 tháng 11 năm 1963, quân Giải Phóng được sự trợ giúp của binh sĩ người Việt làm nội gián, đã tấn công trại Hiệp Hòa (A-21) đóng ở Long An gần biên giới Việt Nam – Campuchia, bắt sống 4 binh sĩ đặc biệt Mỹ gồm : trung sĩ nhất Issac “Ike” Camacho, trung sĩ nhất Kenneth M. Roraback truyền tin, trung sĩ George E. “Smitty” Smith, và hạ sĩ Claude McClure. Sau trận Hiệp Hòa, lực lượng đặc biệt Mỹ đã đẩy mạnh công tác tổ chức và phòng thủ ở các trại đặc biệt khác. Ngoài việc phòng thủ khu vực, ngăn chận đường xâm nhập của quân Giải Phóng, các trại này còn tổ chức do thám, thu thập tin tức tình báo về các hoạt động của quân Giải Phóng, các cuộc điều quân, chuyển quân, phá hoại các kho tàng, kho vũ khí, ….. của quân Giải Phóng chung quanh

Khó khăn lớn nhất chính là rào cản ngôn ngữ giữa lực lượng đặc biệt Mỹ và lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng Hòa cũng như người bản xứ. Nhiều tranh cãi đã diễn ra khi người Việt không muốn bị người Mỹ chỉ huy trong khi người Mỹ sau trận Hiệp Hòa cũng không tin tưởng người Việt nên không chia sẽ các tin tức tình báo hoặc kế hoạch tác chiến

PHẦN II

CHƯƠNG TRÌNH DÂN SỰ CHIẾN ĐẤU 

Civilian Irregular Defense Group program – CIDG

Có 2 nguyên nhân chính để Mỹ và chính quyền Sài Gòn phát triển chương trình Dân Sự chiến đấu CIDG. Một là nhằm mở rộng, tăng cường quân đội để có thể đối phó quân Giải Phóng hiệu quả hơn. Hai là nhằm vào các bộ tộc người Thượng, các dân tộc thiểu số nằm rải rác trên lãnh thổ Nam Việt Nam để bảo vệ các vùng đất này, chống lại sự lôi kéo, tuyển mộ binh sĩ, …của quân Giải Phóng và cũng để chống lại sự xâm nhập từ miền Bắc vào Miên Nam

Năm 1961 đã chứng kiện sự mất kiểm soát của chính quyền Sài Gòn đối với các vùng đất cao nguyên, cũng như các vùng đất hẻo lánh giáp biên giới Việt – Lào, Việt Nam – Campuchia. Tại các vùng đất này, quân Giải Phóng có thể nghĩ ngơi, dưỡng quân, tổ chức huấn luyện binh sĩ, … Trước năm 1954, chỉ có 1 số ít người Kinh sống ở đây, nhưng sau năm 1954, 80.000 dân di cư miền Bắc đã đổ đến vùng đất này và các xung đột với dân địa phương đã xảy ra. Đỉnh điểm là năm 1958, tộc người Rhade hay còn gọi là người Ê đê, một trong những tộc người chủ yếu ở khu vực này đã tổ chức tuần hành, biểu tình để chống đối. Chính quyền đã tiến thành tịch thu cung nỏ, giáo mác, … làm trầm trọng thêm sự bất mãn của người Thượng

Ngoài việc người Thượng bất mãn do cho rằng người Kinh đã giành đất đai của họ. Người Thượng còn cho rằng họ bi khinh bỉ khi người Kinh thường gọi họ là “Mọi”. Mọi thứ chỉ trở nên dịu bớt kể từ năm 1966 sau khi có chương trình CIDG, khi chính quyền miền Nam cố gắng đưa họ về dưới chính quyền bằng các tên gọi mới như “Đồng Bào Thượng”, “Những người yêu nước vùng Cao Nguyên’, …

VĂN HÓA NGƯỜI THƯỢNG

Người Thượng là nhóm người thuộc nhóm thiểu số nhưng có số lượng người lớn nhất trong cộng đồng thiểu số ở Việt Nam với dân số toàn bộ khoảng 600.000đ – 1 triệu người sống trải dài cả ở Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Từ “người Thượng”- “The Montagnard” là từ Pháp cũng giống như từ “Indian” là từ tiếng Anh dùng chỉ để những bộ lạc người sống chủ yếu trên núi. Ở miền Nam Việt Nam, người Thượng có khoảng 29 bộ lạc với tổng dân số khoảng 200.000 người. Các bộ lạc này có nền văn hóa khác nhau đôi chút cho dù cùng tộc người và cho dù làng này ở gần làng kia. Họ có điểm chung giống nhau là mọi hoạt động xã hội đều tập trung trong làng và đều sống bằng nghề đốt rừng làm rẫy, trồng trọt, săn bắn.

P3- Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – US Special Force Group in Viet Nam war – P3

Người Thượng hay còn gọi là người Ede rất có cảm tình với Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – US Special Force Group in Vietnam war do cho rằng mang đã lại lợi ích cho họ

Người Thượng với tộc người chính là người Rhade còn gọi là người Ê đê, người Đề Ga là nhóm người thiểu số chiếm số lượng lớn nhất trong cộng đồng các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ 1, người Pháp cũng như Việt Nam đã cố tìm cách để lôi kéo người Thượng về phía mình do họ đang nắm giữ vị thế địa lý chiến lượng ở vùng Cao Nguyên. Người Pháp thậm chí đã tuyển mộ và huấn luyện nhiều binh sĩ người thượng như là binh sĩ chính quy

Kể từ sau thành công với bộ tộc người Rhade, các hình ảnh mô tả về sinh hoạc của dân làng người Rhade được xem như là kiểu mẫu cho các buôn lành chung quanh theo chương trình CIDG và trong nhiều năm sau đó. Người Rhade được đánh giá là bộ tộc chịu ảnh hưởng lớn nhất cũng như có vị trí quan trọng nhất đối với các nhóm người Thượng khác. Người Rhade tập trung chủ yếu quanh Buôn Ma Thuột , nhưng cũng có 1 số nhóm khác sông quanh Phú Yên, Khánh Hòa, … Tổng dân số người Rhade vào khoảng 100.000 -115.000 người. Trong đó, khoảng 68.000 người số quanh Buôn Ma Thuột

Người Rhade đã sống ở khu vực Cao Nguyên hàng thế kỷ trước. Đến nay vẫn biết rất ít về họ do họ không có ghi chép gì lại. Phần lớn những sự hiểu biết đều do người Pháp ghi nhận lại về họ. Cuộc sống của họ đã ổn định hơn trước do người Pháp đã chỉ bảo họ về lối sống cố định hơn. Họ đã xây nhà ổn định, trồng ruộng lứa gần bờ sông, suối. Theo ghi chép, tổ tiên của họ phần lớn đến từ Trung Quốc và 1 số đến từ khu vực Tây Tạng, Mông Cổ

Người Rhade sống theo chế độ mẫu hệ. Người chồng chịu trách nhiệm kiếm ăn nhưng tài sản thì do vợ giữ. Khi lập gia đình, người đàn ông sẽ sống bên nhà vợ và phải tôn trọng cha vợ tuyệt đối. Nếu anh ta giàu có, có thể có hơn 1 người vợ nhưng người vợ chỉ có 1 chồng duy nhất. Người mẹ chịu trách nhiệm cưới hỏi và của cải gia đình sẽ truyền cho con gái đầu lòng

Nhà ở của người Rhade có thể rất dài, chứa nhiều gia đình với nhau. Có những nhà dài hơn 130m làm bằng ván gỗ và tre nứa nhưng chỉ có 2 lối vào ở 2 đầu. Các thành viên gia đình có thể vào từ 2 đầu nhưng khách thì chỉ có thể đi từ cửa trước. Sàn nhà thường cao hơn 1m và theo hướng Bắc Nam là theo hướng của thung lũng vùng Cào Nguyên

Tôn giáo của người Rhade theo hướng Duy Linh. Họ thờ chúa trời và gọi là Ae Die và sợ hãi quỷ dữ gọi là Tang Lie

Người Rhade tỏ ra rất hào hứng với chương trình CIDG của lực lượng đặc biệt MỹUS Special Force do cảm thấy mang lại nhiều lợi ích cho họ. Họ cảm thấy được tôn trọng về tinh thần và được giúp đỡ về lương thực, thuốc men, … các vật chất khác cho dân làng. Càng về sau, càng nhiều bộ tộc người Thượng khác cũng tình nguyện hợp tác với chương trình CIDG. Chương trình CIDG không chỉ thành công với dân tộc thiểu số người Thượng mà còn thành công với tộc người Nùng ở phía Bắc Việt Nam, người Campuchia, người Chăm, …và cả các các thành phần tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, 

Kinh nghiệm ở buôn ENao

Được sự chấp thuận của chính phủ miền Nam Việt Nam, mùa thu năm 1961, Ủy Ban Mỹ ở Việt Nam là US Mission đã bắt đầu tiếp xúc với các già làng người Rhade với hứa hẹn sẽ hỗ trợ thuốc men, y tế, lương thực thực phẩm, … đồng thời sẽ cung cấp vũ khí, huấn luyện chiến đấu nếu họ tuyên bô ủng hộ chính quyền miền Nam. Ủy Ban quân đội Mỹ cũng đã thỏa thuận rằng, thoạt đầu, chương trình huấn luyện lực lượng bán vũ trang hay còn gọi là chương trình Dân Sự Chiến Đầu CIDG này sẽ hoạt động độc lập và đặt dưới sự hỗ trợ và giám sát của lực lượng cố vấn Mỹ chứ không phải chính quyền miền Nam Việt Nam.

P4- Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – US Special Force Group in Viet Nam war – P4

 

Chương trình lực lượng Dân Sự Chiến Đấu – CIDG của lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam– US Special Force Group in Vietnam war đã được đẩy mạnh sau thành công ở Buôn Enao của tộc người Rhade còn được gọi là người Ê đê, Ra đê hay người Đề Ga

Cuối tháng 10 năm 1961, đại diện của đại sứ quán Mỹ đi cùng 1 chuyên viên Y Tế đã đến viếng thăm làng Buôn Enao – Buon Enao của người Rhade. Trong suốt 2 tuần lễ, 2 bên đã có nhiều cuộc thảo luận. Già làng buon Enao cho biết : do lực lượng quân đội chính phủ miền Nam VN đã không thể bảo vệ họ nên 1 số người Rhade đã buộc phải đi theo quân Giải Phóng do sợ hãi. Trước đây, người Rhade đã theo chính quyền miền Nam nhưng sau đó, họ đã không nhận được sự hỗ trợ về Y tế, giáo dục, … như đã hứa. Người Rhade cũng chống lại sự di cư họ ra vùng khác vì như thế là chiếm đất họ đang ở.

Sau cuộc thương lượng, già làng chấp thuận sẽ hợp tác với chính quyền Sài Gòn. Họ sẽ tiến hành xây hàng rào phòng thủ chung quanh như biểu hiện sẽ tham gia chương trình Dân Sự Chiến Đấu. Bên trong làng sẽ xây các chiến hào, trung tâm liên lạc, tiến hành tuần tra chung quanh, …

Giữa tháng 12, người Rhade ở Buon Enao đã công khai yêu cầu quân Giải Phóng không được vào làng nếu không họ sẽ chống cực bằng cung nỏ và giáo mác. Tiếp theo đó, 50 người từ làng kế bên cũng đến để được quân đội Mỹ tổ chức huấn luyện. Sau thành công ở Buon Enao, lực lượng Mỹ đã lập tức triển khai đến 40 làng chung quanh Buon Enao. Các già làng và các thanh niên của các làng này cũng đến Buon Enao để học tập tổ chức phòng thủ, sử dụng vũ khí, … và đều tuyên bố ủng hộ chính quyền Sài Gòn

Để đẩy mạnh chương trình, nhóm 35 (A-35 Detachment) thuộc lực lượng Đặc Biệt số 1 – 1st Special Force Group đã cử 7 binh sĩ Mỹ cùng 10 người thuộc lực lượng đặc biệt người Rhade và Jarai đã túc trực liên tục ở Buon Enao như là lực lượng huấn luyện chính và là lực lượng chiến đấu chính ở đây. Các thành công đã khiến hơn 50% người Thượng ở đây đã về với chính quyền Sài Gòn. Các chương trình hỗ trợ lương thực, y tế, … của chính quyền Sài Gòn cũng đã được khởi động để đến với người Thượng

Đến tháng 2 năm 1962, thêm 12 binh sĩ Mỹ thuộc nhóm 35 (A-35) tiếp tục được gửi đến và toàn bộ 40 ngôi làng chung quanh Buon Enao đã bắt đầu được huấn luyện theo chương trình CIDG. Đến giữa tháng 4 năm 1962, đã có đến 40 làng tham gia chương trình CIDG

Việc tuyển chọn những binh sĩ để làm nhiệm vụ phòng thủ và làm nhiệm vụ bảo vệ trong khu vực sẽ do những trưởng làng quyết định. Trước khi một làng nào đó được chấp thuận gia nhập chương trình CIDG, các trưởng làng phải đảm bảo số lượng tối thiệu các dân làng sẽ tình nguyện tham gia các công tác huấn luyện để việc phòng thủ và bảo vệ làng đạt được hiệu quả. Chương trình thu hút người Rhade đến nổi các binh sĩ Mỹ không gặp khó khăn gì để tuyển chọn binh sĩ. Một binh sĩ thuộc lực lượng đặc biệt MỹUS Special Force kể lại :

“Trong tuần lễ đầu tiên, nhiều người Rhade đã đến xếp hàng trước cổng làng, chúng tôi không tốn nhiều công sức để tuyển mộ, chương trình lan nhanh từ làng này sang các làng khác”

Chương trình dân sự chiến đấu CIDG tỏ ra thu hút người Rhade ở điểm họ có thể được trang bị lại vũ khí. Những năm 1950, chính quyền đã thu giữ cung nỏ, giáo mác và người Thượng chỉ được vũ trang bằng các ngọn giáo tre. Đến năm 1961, chính quyền đã chấp thuận vũ trang cho các ngôi làng người Thượng và họ bắt đầu nhận được vũ khí. Lực lượng tấn công của ngôi làng sẽ đóng quân ở các trại còn lực lượng phòng thủ sau khi được huấn luyện và trang bị vũ khí sẽ quay về các ngôi làng để làm công tác phòng thủ

Người Mỹ lẫn chính quyền miền Nam hiểu rõ sự nguy hiểm của quân Giải Phóng và họ củng cố sức mạnh chính quyền ở từng ngôi làng. Các trưởng làng sẽ phải đảm bảo sự trung thành với chính quyền và họ sẽ tiết lộ mỗi khi có quân Giải Phóng xâm nhập hoặc chỉ rõ người nào có cảm tình với quân Giải Phóng. Trung bình mỗi ngôi làng phát hiện ra 5-6 binh sĩ Giải Phóng và những người này được giao cho trưởng làng hoặc chính quyền để cải tạo

Những sĩ quan người Rhade sau khi được binh sĩ Đặc Biệt người Việt huấn luyện sẽ chịu trách nhiệm huấn luyện lại các binh sĩ thuộc lực lượng tấn công và lực lượng phòng thủ của từng ngôi làng còn các binh sĩ Đặc Biệt sẽ đảm trách công tác như các cố vấn. Các binh sĩ của các ngôi làng được trang bị súng trường M1 hoặc súng trường M3 sẽ được huấn luyện các bài tập về liên lạc, tuần tra, phục kích, chống phục kích , … đơn vị cơ bản là tiểu đội gồm 8-14 người và số lượng binh sĩ tùy thuộc dân số trong làng và địa bàn hoạt động

Các hoạt động của chương trình CIDG được phối hợp với chính quyền địa phương và các đơn vị của chính phủ miền Nam đóng trên địa bàn. Các đơn vị này sẽ phối hợp hành động với nhau, chia sẽ thông tin tình báo. Trong vài trường hợp, các đơn vị đặc biệt Mỹ sẽ tháp tùng các cuộc tuần tra, phục kích, … của người Thượng nhưng cả người Việt lẫn người Mỹ đều quy định rằng người Mỹ sẽ không tham gia chỉ huy bất cứ đơn vị người Việt nào

Toàn bộ các ngôi làng đều được phòng vệ tùy mức độ, có các phương tiện khi cần di tản, có hầm trú ẩn cho phụ nữ và trẻ em. Các đơn vị thuộc lực lượng tấn công đóng ở trại nằm ở trung tâm làng Buôn Enao nhằm tạo lực lượng phản ứng nhanh. Các ngôi làng liên kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau khi chờ các làng khác đến cứu trong trường hợp bị tấn công. Hệ thống phòng thủ không chỉ giới hạn trong các làng người Thượng mà còn bao gồm cả các làng người Việt.

P5- Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – US Special Force Group in Viet Nam war – P5

Lực lượng Đặc Biệt Mỹ trong chiến tranh Việt NamUs Special Force Group in Vietnam war rất chú trọng chương trình thám thính và thăm dò đường mòn – trailwatchers program nhằm nhận diện và báo cáo các hoạt động của các nhóm Việt Cộng nơi các khu vực biên giới, phá hủy trang thiết bị, bắt giữ hoặc tiêu diệt các nhóm Việt Cộng ít người, ..

Hệ thống tiếp tế và hỗ trợ các trại đặc biệt đều do Ủy Ban Mỹ đảm nhiệm. Đây là hệ thống độc lập hoàn toàn so với hệ thống tiếp tế của quân đội Mỹ và Việt Nam. Lực lượng đặc biệt Mỹ đóng vai trò cầu nối trong việc tiếp tế cho các ngôi làng mặc dù những người Mỹ không đóng vai trò hỗ trợ trực tiếp mà thông qua những người chỉ huy bản địa

Trong công tác hỗ trợ dân sự, chương trình tự vệ dân làng cũng phát triển đồng thời và song song với chương trình tự vệ. Hai đội người Thượng, mỗi đội gồm 6 người sẽ được huấn luyện để đào tạo lại cho dân làng các cách thức trồng trọt, chăm sóc mùa màng, thu hoạch, nghề thợ rèn, … các binh sĩ phụ trách quân y cũng tiến hành chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, … đồng thời sang các ngôi làng mới để khám bệnh do đó đẩy mạnh được chương trình hỗ trợ Dân Sự. Chương trình này đã được sự hỗ trợ tích cực từ dân tộc người Rhade

Việc thiết lập hệ thống tự vệ của 40 ngôi làng chung quanh Buon Enao đã nhận được sự quan tâm từ các cộng đồng người Rhade khác và chương trình ngày càng tạo được nhiều thu hút lớn ở tỉnh Darlac. Mô hình tương tự Buon Enao nhanh chóng được thiết lập ở Buôn Hồ, Buôn Krong, Ea Ena, Lạc Tiên và Buon Tah. Đến tháng 8 năm 1962, đã có khoảng 200 làng đã tham gia chương trình Dân Sự Chiến Đấu và ngày càng nhiều nhóm lực lượng Đặc Biệt được thành lập để tăng phái cho các ngôi làng

Chương trình ở Buon Enao thành công ngoài dự kiến. Các dân làng đã tham gia chương trình huấn luyện với sự hào hứng và họ đã chống trả lại Việt Cộng một cách hiệu quả. Đến cuối năm 1962, chính quyền đã có thể kết luận Dar Lac là một tỉnh rất an toàn và chương trình này được áp dụng với các bộ tộc khác như người Jarai và Mnong

Các khu vực đã tham gia chương trình Dân Sự Chiến Đấu CIDG đến năm 1962 trong chiến tranh Việt Nam - By August 1962 the area under development encompassed 200 villages joined CIDG programme in Vietnam war
Các khu vực đã tham gia chương trình Dân Sự Chiến Đấu CIDG đến năm 1962 trong chiến tranh Việt Nam – By August 1962 the area under development encompassed 200 villages joined CIDG programme in Vietnam war

Chỉ huy và tổ chức trong thời kỳ Buon Enao

Trong thời kỳ Buon Enao, lực lượng đặc biệt Mỹ – US Special Force Group có nhiều thay đổi. Việc mở rộng của chương trình Buon Enao và việc huấn luyện lực lượng đặc biệt người Việt trong năm 1962 đòi hỏi lượng lớn lực lượng đặc biệt Mỹ tham gia . Lực lượng đặc biệt ngày càng lớn mạnh kéo theo việc thành lập cơ quan Tổng Hành Dinh của lực lượng đặc biệt. Đây là sự hợp tác của cơ quan MACV vốn là chỉ huy của các lực lượng Mỹ ở Việt Nam và cơ quan Ủy Ban Mỹ – Us Missio vốn chịu trách nhiệm chỉ huy hệ thống chương trình Dân Sự Chiến Đấu CIDG và chỉ huy lực lượng đặc biệt Mỹ

Vào tháng 2 năm 1962, đã có nhóm đặc biệt Mỹ hoạt động ở Dar Lac trong chương trình Buon Enao . Trong khi đó, cơ quan MACV cũng được thành lập dưới quyền của tướng Paul D. Harkins. Vào tháng 5, một thỏa thuận về sự hợp tác giửa cơ quan MACV và Us Moission được thỏa thuật. Tháng 7, Bộ Quốc Phòng Mỹ đã quyết định chuyền toàn bộ dân Sự Chiến Đấu và lực lượng đặc biệt Mỹ cho cơ quan MACV phụ trách. Việc chuyển giao được thực hiện dưới tên gọi chương trình Switchback- Opeation Switchback và việc này hoàn tất vào tháng 7 năm 1963 và đến tháng 10 năm 1962, đã có 24 nhóm lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam

Đến tháng 11 năm 1962, lực lượng đặc biệt ở Việt Nam được tổ chức thành 1 nhóm C, 3 nhóm B và 26 nhóm A và 1 Bộ Chỉ Huy đặt ở Sài Gòn. Các nhóm A ( A detachments ) là các nhóm chịu trách nhiệm các hoạt động ở các trại đặc biệt. Các nhóm B ( B detachments ) là cấp cao hơn được thiết lập tại mỗi vùng Chiến Thuật và điều phối các nhóm A để phối hợp các hoạt động quân sự với các đơn vị Việt Nam. Nhóm C ( C detachments ) chịu trách nhiệm phối hợp các Bộ Chỉ Huy các đơn vị và binh chủng khác . Các nhóm A hoạt động tại Việt Nam thuộc Nhóm Lực Lượng Đặc Biệt số 1 – 1st Special Forces Group có căn cứ tại Okinawa , Nhật Bản và thuộc Nhóm Lực Lượng Đặc Biệt số 5 và số 7 ( 5th Special Forces Group và 7th Special Forces Group) có căn cứ tại Fort Bragg, North Carolina.

Tháng 2 năm 1963, Tổng Hành Dinh của lực lượng đặc biệt được chuyển đến Nha Trang để tiện việc phân bổ các lực lượng cũng như nhận tiếp viện từ Okinawa và phân đi các trại đặc biệt trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam được thuận tiện hơn. Đến tháng 12 năm 1963, các nhóm Đặc Biệt Mỹ cùng các nhóm Đặc Biệt của Việt Nam đã huấn luyện được 18.000 binh sĩ tấn công cùng 43.376 dân quân thôn làng. 

Thoạt đầu, chương trình huấn luyện ở Buon Enao chưa được gọi là chương trình Dân Sự Chiến Đấu – CIDG (  Civil Irregular Defense Group ). Các binh sĩ này có khi được gọi là Tự Vệ Dân Làng , có khi được gọi là Dân Quân Thôn Làng, … Dần dà sau đó, thuật ngữ Dân Sự Chiến Đấu – CIDG mới trở nên thông dụng để gọi các chương trình chống nổi dậy sau khi các nỗ lực tại Buon Enao được mở rộng

Chương trình Bán Vũ Trang

Các nổ lực để đẩy nhanh tiến trình sau những thành công tại Buon Enao ngày càng được nâng lên và không chỉ với người Rhade mà còn lan đến những khu vực của người Thượng và những vùng của các dân tộc khác và sau đó được gọi là chương trình Dân Sự Chiến Đấu – CIDG. Với chương trình được mở rộng này, các nhóm lực lượng Đặc Biệt dưới quyền của Ủy Ban Hoa Kỳ – Us Mission đã huấn luyện chương trình bán vũ trang cho các buôn làng

Tháng 12 năm 1961, một nửa thứ hai của nhóm A-35 đã đến trung tâm huấn luyện Hòa Cầm ở Đà Nẵng (Một nửa lực lượng đầu đã đến Buon Enao) . Tại Hòa Cầm, họ đã bắt đầu chương trình huấn luyện cơ bản cùng 1 số chương trình huấn luyện đặc biệt khác.Trong số các đơn vị được huấn luyện ở Hòa Cầm có 1 số đơn vị là nhóm biệt kích miền núi. Các binh sĩ này được dùng trong các nhóm viễn thám ở các khu vực rừng rậm và đồi núi để duy trì sự hiện diện của chính quyền cũng như tiến hành các hoạt động thu thập tin tức tình báo, các hoạt động quân sự , …

Một chương trình đào tạo khác đó là chương trình thám thính và thăm dò đường mòn – trailwatchers program. Nhiệm vụ của các binh sĩ này là nhận diện và báo cáo các hoạt động của các nhóm Việt Cộng nơi các khu vực biên giới, phá hủy trang thiết bị, bắt giữ hoặc tiêu diệt các nhóm Việt Cộng ít người, … mỗi khi có cơ hội . Các nhóm người Thượng sinh sống gần biên giới Campuchia và Lào được huấn luyện theo chương trình kéo dài 8 tuần ở Đà Nẵng hoặc các trung tâm đào tạo khác. Chương trình trailwatchers program được xem là một trong những chương trình quan trọng nhất trong chương chình huấn luyện Dân Sự Chiến Đấu – CIDG

P6- Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Việt Nam – US Special Force Group in Viet Nam war – P6

Một trung tâm Phát Triển Khu Vực hay còn gọi là trại CIDG của Lực lượng Đặc Biệt Mỹ trong chiến tranh Việt NamUs Special Force Group in Vietnam war sẽ bao gồm 1 căn cứ huấn luyện và các binh sĩ được tuyển mộ từ các ngôi làng chung quanh

Lực lượng Đặc Biệt Mỹ đã giúp đỡ đào tạo lực lượng bán vũ trang trong chương trình được gọi là “Những Người Cha chiến đấu” – “fighting fathers programe” . Trong chương trình này, việc chống nổi dậy được tập trung ở các nhà thờ , các cha xứ và một số giáo dân sẽ được huấn luyện và sau đó sẽ truyền lại cho các giáo dân khác. Chương trình Dân Sự Chiến Đấu – Civilian Irregular Defense Group – CIDG ra đời như là một sự pha trộn của nhiều chương trình nhỏ khác nhằm giúp các nhóm dân tộc thiểu số chống lại các sự nổi dậy của du kích Bắc Việt và giúp bảo vệ các vùng lãnh thổ của chính phủ miền Nam Việt Nam

Cuối năm 1964, chương trình người Thượng không còn chủ yếu nhằm phát triển và bảo vệ các ngôi làng mà đã bắt đầu mở rộng với mục đích sử dụng các làng này nhằm hỗ trợ các cuộc tấn công hoặc các chiến dịch hoạt động quân sự trong khu vực . Các hoạt động quân sự bao gồm bảo vệ và phòng thủ các ngôi làng được đặt ưu tiên các hoạt động phát triển dân sự. Đặc biệt , lực lượng chiến đấu trong chương trình CIDG được nhấn mạnh với vai trò chính là “Săn tìm Việt Cộng”

Trong năm 1963, một nhiệm vụ quan trọng thứ hai được giao đó là giám sát và tuần tra khu vực biên giới. Một số trại CIDG được thiết lập ở các khu vực biên giới . Mặc dù nhiệm vụ phát triển địa phương cũng được đẩy mạnh xen kẻ với việc tuần tra biên giới, nhưng đến năm 1964, công tác tuần tra biên giới được đẩy mạnh hơn hẳn

Với việc mở rộng chương trình CIDG, thêm nhiều ngôi làng người Thượng tham gia và được đưa vào chương trình phát triển, thêm nhiều nhóm Lực lượng Đặc Biệt MỹUs Special Force được thành lập. Chương trình không còn nhằm vào một khu vực cụ thể nữa mà bắt đầu được đẩy mạnh và phát triển ra khắp miền Nam Việt Nam. Buôn làng Enao là nơi phát sinh chương trình CIDG đầu tiên ở Darlac được mở rộng, một số buôn làng ở vùng I Chiến Thuật và các tỉnh phía Bắc của vùng II Chiến Thuật như Kontum và Pleiku cũng bắt đầu được áp dụng chương trình CIDG

Một trung tâm Phát Triển Khu Vực hay còn gọi là trại CIDG của Lực lượng Đặc Biệt Mỹ trong chiến tranh Việt NamUs Special Force Group in Vietnam war sẽ bao gồm một căn cứ cho các hoạt động huấn luyện an ninh, lực lượng chiến đấu sẽ được tuyển mộ từ các ngôi làng chung quanh đó. Các ngôi làng chung quanh đó sẽ được các binh sĩ này bảo vệ. Lực lượng CIDG sẽ được phân làm 2 nhóm gồm lực lượng phòng vệ và lực lượng tấn công . Lực lượng phòng vệ không được trả lương như lực lượng tấn công, họ chỉ được trả lương khi đang trong thời gian tham gia huấn luyện 

Lực lượng tấn công được trả lương như quân đội chính quy của chính phủ miền Nam Việt Nam. Lực lượng này được tổ chức theo quy mô trung đội và đại đội, chịu trách nhiệm phòng thủ trong khu vực, hỗ trợ các buôn làng khi bị tấn công, tổ chức tuần tra, thiết lập các cuộc phục kích, … 

Trong công tác phát triển địa phương, chương trình CIDG còn thu mua sản phẩm của người Thượng, thuê lao động địa phương để phục vụ công việc xây dựng trại, căn cứ, … Tất cả nhằm kích thích phát triển kinh tế cộng đồng nơi đây. Mục đích sau cùng của chương trình CIDG còn nhằm tích hợp chương trình này vào chính sách quốc gia gọi là Ấp Chiến Lược đối với các khu vực đã được bình định. Tuy nhiên, việc đảo chính và cái chết của tổng thống Ngô Đình Diệm đã làm đảo lộn tất cả

Chiến dịch Switchback (tháng 11/1962 – 7/1963)

Theo chiến dịch Switchback, Quân đội Mỹ bắt đầu tham gia vào chương trình CIDG kể từ tháng 11/1962 bằng cách tham gia vào công tác huấn luyện 

Cho đến ngày 30/6/1963, Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam – Military Assistance Command, Vietnam (MACV) chịu trách nhiệm toàn bộ về công tác tiếp vận và ngân sách cho chương trình CIDG và điều hành toàn bộ chương trình này. Tuy nhiên, vẫn còn 1 số chương trình bán vũ trang chưa được tích hợp vào CIDG nên chưa nằm dưới quyền chỉ huy của cơ quan MACV. Chương trình quan trọng nhất đó chính là việc tuần tra ở khu vực biên giới , công tác vốn dưới quyền chỉ huy của Phái Bộ Chỉ Huy Mỹ – Us Mission và đến tháng 10 năm 1963 thì được sáp nhập vào chương trình CIDG và bàn giao lại cho cơ quan MACV

Việc tiếp tế trong chương trình CIDG đã gặp rất nhiều khó khăn nhưng cũng rất thành công. Chịu trách nhiệm tiếp tế cho các đơn vị Đặc Biệt là Liên Đoàn Hỗ Trợ Quân Đội Mỹ tại Việt Nam – U.S. Army Support Group, Vietnam . Mặc dù phải phối hợp với nhiều cơ quan khác nhau bao gồm đánh giá các mặt hàng cần thiết, thu mua và chuẩn bị các mặt hàng đó tại Mỹ hoặc Việt Nam, … sau đó vận chuyển đến các đơn vị Đặc Biệt

Văn Phòng Hỗ Trợ Chống Nổi Dậy – Counter-Insurgency Support Office được thiết lập dưới quyền của cơ quan G-4 của quân đội Mỹ ở đảo Ryukyu , Okinawa, Nhật Bản . Cơ quan này chịu trách nhiệm thu mua và chuẩn bị mọi hàng hoá cần thiết từ bên ngoài Việt Nam . Trong suốt chiến dịch Switchback, trung bình mỗi tháng, cơ quan này không vận khoảng 740 tấn từ Sài Gòn và Đà Nẵng đến các đơn vị Đặc Biệt 

Cuối năm 1962, chỉ sau 1 năm từ sự khởi đầu ở Buôn Enao, đã có 6.000 binh sĩ tấn công và 19.000 binh sĩ phòng vệ đã được huấn luyện. Ngoài ra còn có 300 binh sĩ tuần tra biên giới, 2.700 binh sĩ tuần tra đường núi và khoảng 5.300 binh sĩ được huấn luyện cơ bản 

Việc mở rộng chương trình CIDG từ tháng 11 năm 1962 – ngày 1 tháng 7 năm 1963 là ngày kết thúc của chiến dịch Switchback đã diễn ra khá nhanh chóng . Có khoảng 40 trại CIDG được dựng lên và có 8 trại được loại bỏ . Việc này khác so với lúc hình trại ở Buon Enao với khi đó tốn rất nhiều thời gian để đàm phán, chuẩn bị và huấn luyện binh sĩ. Tại nhiều nơi Việt Cộng có ảnh hưởng mạnh, các trại CIDG rất khó tuyển mộ binh sĩ. Với các bộ tộc không phải dân Rhade, các nhóm Tấn Công – Strike force phải di chuyển đến vùng khác để dựng trại. Khi đó, hoạt động chính sẽ không còn là hoạt động phòng thủ – hỗ trợ lẫn nhau mà là tấn công để mở rộng vùng bảo vệ trại

Các hoạt động thuộc nhóm CIDG trong chương trình Switchback thường bao gồm : phục kích, tuần tra giám sát và tuần tra kết hợp tấn công trong khu vực chung quanh trại . Đến tháng 6 năm 1963, các trại CIDG thuộc vùng II Chiến Thuật đã hoàn tất việc huấn luyện cơ bản và cho phép các binh sĩ Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ chuyển từ chương trình huấn luyện phòng thủ sang tấn công . Đó là việc kết hợp tác chiến với các binh sĩ VNCH trong các chiến dịch và việc kết hợp tác chiến giữa các trại với nhau. Chẳng hạn vào tháng 6 đã có chiến dịch phối hợp 4 đại đội thuộc các trại Dak To, Plei Mrong,  Polei Krong. Trong các chiến dịch này, vai trò của các binh sĩ thuộc lực lượng Đặc Biệt Mỹ đều là hướng dẫn lẫn chỉ huy chứ không đơn thuần chỉ là cố vấn quân sự như được giao lúc ban đầu. Nguyên nhân là các chỉ huy người Việt của các trại không được huấn luyện tốt và có kinh nghiệm chỉ huy dày dạn như các binh sĩ Mỹ.

Wednesday, October 1, 2025

P7- Lực Lượng Đặc Biệt – Biệt kích Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – US Special Force in Viet Nam war – P7 END

Một trong các nhiệm vụ của Lực lượng đặc biệt – Biệt kích Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – US Special Force in Viet Nam war là hình thành lực lượng CIDG – Dân Sự Chiến Đấu

Các binh sĩ CIDG Việt Nam có thể nói không hề nhút nhát trên chiến trường. Trái lại, nhiều chiến trận cho thấy họ chiến đấu rất ngoan cường. Chỉ có vấn đề là họ không hào hứng lắm với chương trình CIDG. Nhiều trại đã gặp trở ngại lớn trong việc thay thế các binh sĩ CIDG người Việt và thái độ không nhiệt tình của binh sĩ Việt. Do đó, rất nhiều trường hợp gánh nặng trong tác chiến lại đè nặng trên vai của những binh sĩ – cố vấn Mỹ

Thông thường, một hoạt động quân sự sẽ bao gồm khoảng 1 đại đội binh sĩ CIDG kèm 1-2 binh sĩ thuộc lực lượng Đặc Biệt. Nếu có binh sĩ thuộc lực lượng Đặc Biệt là người Việt đi kèm thì binh sĩ Đặc Biệt Mỹ sẽ đóng vai trò cố vấn. Thông thường các binh sĩ Đặc Biệt này đều chiến đấu cực tốt và kiêm luôn nhiệm vụ chỉ huy, đốc thúc tác chiến, … Do đó, các binh sĩ Đặc Biệt đều có nhiều hơn 1 huy chương về Cá Nhân Dũng Cảm

Phản ứng của Việt Cộng đối với việc mở rộng các trại CIDG phần lớn đều là hành động quấy rối và đôi khi là các tình huống tấn công thăm dò. Tuy nhiên, trong chiến dịch Switchback – operation Switchback , phía Việt Cộng đã gia tăng các hoạt động tấn công. Ngày 3 tháng 1 năm 1963, ít nhất 2 đại đội Việt Cộng với sự trợ giúp của hơn 33 đặc công đã thâm nhập, tấn công và tràn ngập  trại Plei Mrong . Sau vụ đó, cơ quan MACV ở Việt Nam đã ra lệnh cho toàn bộ các toán A đóng ở các trại CIDG phải lập thêm hàng rào phòng thủ thứ 2 bên trong của tuyến phòng thủ bên ngoài

Trong suốt chiến dịch Switchback, các lực lượng đặc biệt đã được tăng cường rất nhiều. Hai tiểu đoàn công binh thuộc Hải Quân Mỹ (Seabee) đã đến Việt Nam vào tháng 1 năm 1963 trong kế hoạch 6 tháng. Họ sẽ đảm nhiệm các nhiệm vụ xây sân bay. Ngoài ra còn có một số nhóm với 5 người mỗi nhóm thuộc Công Binh của Lục Quân Mỹ cũng được đưa đến để xây dựng, sửa chữa, .. các công trình dân sự như trường học, bệnh viện, đường xá, … Bên cạnh đó, cũng có những hoạt động tăng cường về các hỗ trợ dân sinh, các hoạt động về tâm lý chiến, …

Từ tháng 6 năm 1963, các binh sĩ được đào tạo đặc biệt về chương trình dân sinh, dân sự, tâm lý chiến được đưa về lực lượng Đặc Biệt của Việt Nam . Một số nhóm với mỗi nhóm 2 người được đưa về lực lượng Đặc Biệt nhóm B tức là nhóm chỉ huy các nhóm A bên dưới

Chuyển đổi và nhân sự ở Buon Enao

Tình hình chuyển đổi và nhân sự ở Buon Enao cũng phản ánh tình trạng giống hệt ở các trại CIDG khác . Thực tế thì vấn đề nhân sự ở các trại CIDG là quá trình trao quyền chỉ huy và trách nhiệm về tổ chức các trại cho lực lượng Đặc Biệt hay biệt kích người Việt . Các binh sĩ CIDG khi ở các trại cũng sẽ là lính CIDG. Tuy nhiên, một số binh sĩ CIDG cũng sẽ được chuyển sang lính Địa Phương Quân hay lính Nghĩa Quân

Một nhiệm vụ của chương trình CIDG là khi khu vực đó đã ổn định và được đảm bảo an ninh, khu vực đó sẽ được về cho tổ chức hành chính của tỉnh đó tiếp quản . Cuối tháng 6 năm 1963, dù chương trình CIDG vẫn đang mở rộng, một báo cáo cho biết chỉ có khu vực Buon Enao là được đánh giá là ổn định và đảm bảo an ninh. Mặc dù vậy, việc chuyển giao khu vực Buon Enao vẫn không được tiến hành. Liên Đoàn 5 Đặc Biệt – 5th Special Forces Group đánh giá :

“Cuối năm 1963, khu vực Buon Enao vẫn mất tổ chức và không đạt được những hiệu quả”

Việc chuyển đổi của Buon Enao đã chỉ ra hai vấn đề cốt lõi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình chuyển giao các binh sĩ được đào tạo bởi lực lượng Đặc Biệt – Biệt kích cho chính quyền Việt Nam . Đầu tiên là việc chính quyền VNCH thiếu chuẩn bị và các thành phần lực lượng để có thể tiếp quản và duy trì phát triển các khu vực đó. Vấn đề thứ hai là việc khiên cưỡng trong việc tích hợp lực lượng CIDG vào lực lượng chính quy của quân đội VNCH

Tháng 9 năm 1962, chính quyền tỉnh Darlac đồng ý tiếp nhận 32 trong số 214 ngôi làng thuộc tổ hợp Buon Enao . Các ngôi làng này được đánh giá là an ninh. Kế hoạch cũng sẽ tiếp nhận thêm 107 ngôi làng vào cuối tháng 3 năm 1963 và tiếp nhận số làng còn lại vào cuối tháng 6 năm 1963

Chính quyền đã lập kế hoạch rất vững chắc cho việc chuyển đổi Buon Enao . Chính quyền cấp tỉnh và lực lượng Đặc Biệt – Biệt kích đã được giao nhiệm vụ rất cụ thể và chi tiết để tiến hành. Tuy nhiên lực lượng Đặc Biệt Mỹ trong khu vực lại đánh giá rằng vấn đề chuyển đổi này chưa thích hợp do còn nhiều vấn đề chưa giải quyết nhưng họ không thể làm thay đổi ý định của chính quyền Việt Nam. Kết quả là vào cuối năm 1962, chính quyền tỉnh Darlac đã tiếp quản 37 ngôi làng trong tổ hợp Buôn Enao. Tuy nhiên, do tỉnh Darlac không thể hỗ trợ tài chính, hậu cần, … cho các ngôi làng này nên viện chuyển giao gần như chỉ là thực hiện trên giấy tờ còn thực tế thì các ngôi làng này vẫn phải dựa vào sự hỗ trợ từ lực lượng Đặc Biệt Mỹ 

Ngày 20 tháng 3 năm 1963, thêm 107 ngôi làng được chuyển giao mặc dù 32 ngôi làng được chuyển giao trước đó còn chưa có ngân sách hỗ trợ. 139 ngôi làng cuối cùng được chuyển đổi thành chương trình Ấp Chiến Lược do những ngôi làng này không được quỹ Việt Mỹ chấp thuận cấp ngân sách hỗ trợ. Tổng cộng 214 ngôi làng này vẫn được hỗ trợ từ quỹ Ủy Ban Mỹ 

Tháng 4 năm 1963, 604 trong số 900 binh sĩ thuộc lực lượng Tấn Công của Buon Enao được bàn giao cho chính quyền tỉnh Darlac để biên chế vào chương trình CIDG và tuần tra biên giới. Một đại đội được cử đến tỉnh Quảng Đức để lập trại Bu Prang . Ngay sau khi được chuyển giao, chính quyền tỉnh Darlac đã ngay lập tức cử 604 binh sĩ này đến Buôn Ma Thuột và để toàn bộ khu Buon Enao không có lực lượng nào phòng thủ . Mặc dù tỉnh Darlac được giao nhiệm vụ trả lương cho nhóm binh sĩ này nhưng chính quyền Darlac đã không trả lương họ cho đến tháng 7 khiến nhóm này dọa sẽ đào ngũ nếu không nhận được lương. Mọi việc chỉ được dàn xếp ổn thỏa khi lực lượng Đặc Biệt Mỹ trả lương cho họ từ quỹ CIDG

Những sự kiện như vậy cũng khiến cộng đồng người Rhade e dè vì một số buôn làng khác cũng đến Buon Enao để thăm dò, tìm hiểu và Buon Enao như biểu tượng của toàn chương trình CIDG.

KATUM 1968 | Căn cứ LLĐB Hoa Kỳ bị tấn công

Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Việt Nam

Bộ ảnh Lực lượng đặc biệt (Tiếng Anh: Army of the Republic of Vietnam Special Forces, ARVNSF) - viết tắt: LLDB - là một đơn vị quân sự tinh nhuệ đặc biệt của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, khởi đầu là các toán biệt kích được huấn luyện để hoạt động sâu trong vùng kiểm soát của đối phương, chủ yếu để làm các nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo, bắt cóc, phá hoại các mục tiêu quân sự, về sau, lực lượng này phát triển thêm thành đơn vị tác chiến, có vai trò như một binh chủng đặc biệt tinh nhuệ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Các tư lệnh chỉ huy nổi tiếng:
-Lê Quang Tung
-Phan Đình Thứ
-Đoàn Văn Quảng
-Phạm Văn Phú

I. LỜI GIỚI THIỆU.
Kể từ lâu, năm 1957 đã có quân của LLĐB/HK tại Việt-Nam, lúc đó họ chỉ làm nhiệm vụ huấn luyện, cố vấn và giúp đỡ quân đội VNCH. Các biệt kích mũ xanh phải tình nguyện hai lần, lần đầu học nhẩy dù và sau đó học về LLĐB. Trong năm 1957, ngày 24 tháng sáu, liên đoàn 1 LLĐB được thành lập tại Okinawa và gửi sang Việt Nam huấn luyện cho 58 quân nhân Việt Nam tại trung tâm huấn- uyện Biệt Động Đội ở Nha Trang. Những sĩ quan thụ huấn đó sau này trở thành huấn luyện viên hoặc cán bộ nồng cốt cho các đơn vị đầu tiên của LLĐB/VN. Mười năm sau LLĐB cố vấn và yểm trợ cho hơn 40.000 Dân Sự Chiến Đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền nam Việt Nam.

II. PHÁT TRIỂN.
Trong năm 1959, 1960 với sự bành trướng của Việt Cộng, gia tăng các vụ phá hoại, khủng bố gây nên tình trạng bất an nơi thôn quê, hẻo lánh. Quân đội Hoa Kỳ gửi thêm ba mươi huấn luyện viên LLĐB từ căn cứ Fort Bragg sang nam Việt Nam để tổ chức một chương trình huấn luyện cho QLVNCH.
Ngày 21 tháng Chín 1961, Tổng Thống John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân khoản viện trợ quân sự, kinh tế cho Việt Nam. Chính quyền Hoa Kỳ lo ngại về vấn đề xâm nhập người và vũ khí của quân cộng sản vào miền nam, do đó phải tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán A Lực Lượng Đặc Biệt được giao phó cho trách nhiệm tổ chức và huấn luyện những dân tộc thiểu số, phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch từ bắc vào nam. Về sau những lực lượng võ trang này được gọi là Dân Sự Chiến Đấu.
Liên đoàn 5 LLĐB/HK được gửi sang Việt Nam và hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các hoạt động, hành quân đặc biệt tại miền nam. Lực Lượng Đặc Biệt được lục quân Hoa Kỳ tổ chức nhằm thích ứng cho các cuộc hành quân ngoại lệ và đã được định nghiã như “ba khía cạnh liên hệ trong du kích chiến, trốn tránh và đào tẩu, gậy ông đập lưng ông chống lại kẻ thù”. Chiến tranh ngoại lệ được định nghiã như sau “Hoạt động ngay trong lòng địch, hoặc những nơi địch kiểm soát”.
Cơ cấu tổ chức căn bản của liên đoàn Lực Lượng Đặc Biệt gồm có một bộ chỉ huy đầu não, ban chỉ huy các đại đội, ba đại đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi đoàn yểm trợ. Các bộ, ban chỉ huy gồm đủ các ban tham mưu để chỉ huy và theo dõi, thêm phần quân y, và đơn vị tiếp tế thả dù. Đại đội LLĐB thường do một sĩ quan cấp bậc trung tá chỉ huy, thường gồm có một ban tham mưu và một BCH hành quân C, bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba BCH/HQ B, mỗi BCH/HQ B sẽ chỉ huy bốn toán A. Toán A là một đơn vị căn bản mười hai người nồng cốt của LLĐB.

III. LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ĐẤU.
Có hai lý do cho việc tổ chức DSCĐ. Người Hoa Kỳ tin rằng nên võ trang nhóm dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của quân cộng sản. Lý do thứ hai, người Thượng và các sắc dân thiểu số là mục tiêu chính cho chủ thuyết tuyên truyền của cộng sản, họ không hài lòng về chính quyền quốc gia, rất dễ bị địch lợi dụng, tuyển mộ.
Vào tháng Chín 1962, bộ chỉ huy LLĐB tại Việt Nam được thành lập và trực thuộc Bộ Chỉ Huy Quân Viện (MAAG). Đến tháng Mười 1962, có tất cả hai mươi bốn toán LLĐB/HK hoạt động trên miền nam Việt Nam. Tháng Mười Một 1962, LLĐB/HK tại Việt Nam được tổ chức gồm có một BCH C, ba BCH B và hai mươi sáu toán A. Ngoài ra còn có một bộ chỉ huy đặt tại Saigon. BCH C không làm việc bình thường trên phương diện chỉ huy, điều hành mà làm nhiệm vụ như phần mở rộng của BCH trung ương.
Trong thời gian từ tháng Mười Hai 1962 đến tháng Hai 1963, BCH/LLĐB/HK hoàn toàn chịu trách nhiệm chỉ huy các hoạt động của các toán A tại Việt Nam. Lúc đó các toán A đã thiết lập các trại Dân Sự Chiến Đấu trên khắp bốn quân khu. Một BCH B được thành lập trên mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của QLVNCH và chỉ huy, yểm trợ các toán A. Các toán A được xử dụng tạm thời lấy từ liên đoàn 1 LLĐB từ Okinawa, và liên đoàn 5, 7 LLĐB từ Fort Bragg, North Carolina. Đến tháng Mười Hai 1963, các toán A phối hợp với LLĐB Việt Nam đã huấn luyện và võ trang cho 18000 người thuộc lực lượng xung kích (Mobile Strike Force, Mike Force) và 43000 người phòng vệ dân sự (CIDG).
Tháng Hai 1963, bộ chỉ huy LLĐB/HK từ Saigon dời đi Nha Trang do hai điều thuận lợi, thứ nhất, Nha Trang nằm vào khoảng giữa từ vĩ tuyến 17 đến cuối miền nam, dễ điều hành các toán A nằm rải rác khắp miền nam Việt Nam. Thứ hai, vị trí nơi biển dễ nhận đồ trang bị, tiếp liệu đến từ Okinawa và phi trường, đường xá có sẵn cho vấn đề tiếp vận.
Cuối năm 1964, lực lượng Dân Sự Chiến Đấu không còn là vấn đề phát triển nữa. Mục đích và nhiệm vụ cũng thay đổi, không ngoài việc phòng vệ xóm làng, các trại DSCĐ được xử dụng làm căn cứ cho các cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt địch. Sự thay đổi lớn thứ hai nhằm tăng phần hiệu qủa cho việc kiểm soát biên giới, LLĐB/HK xây thêm một số trại biên phòng.
Trong cuộc hành quân Switchback (11-62 đến 07-62), các hoạt động tấn công thuộc lực lượng xung kích DSCĐ bao gồm phục kích, tuần tiễu, thám sát trong khu vực trách nhiệm của mỗi trại. Ngoài ra những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị VNCH bao gồm LL/DSCĐ thuộc nhiều trại. Trong tháng sáu, bốn đại đội xung kích DSCĐ lấy từ các trại Đak To, Plei Mrong và Polei Krong phối hợp hành quân lùng địch.
Quân cộng sản phản ứng bằng cách pháo kích, quấy rối các trại biên phòng. Trong cuộc hành-quân Switchback, các hoạt động địch gia tăng, hầu hết các trại đều bị bắn quấy rối. Ngày 3 tháng Giêng 1963, đặc công cùng hai đại đội CSBV tấn công và tràn ngập trại Plei Mrong. Vấn đề phòng thủ các trại biên phòng được xét lại, bộ chỉ huy Quân Viện ra lệnh cho các toán A thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai cho tất cả các tiền đồn. LLĐB/HK được tăng cường thêm hai tiểu đoàn Công-binh Hải-quân (Seabee) phụ gíup trong việc xây cất.

Việc xử dụng LL/DSCĐ bao gồm các hoạt động tuần tiễu, lục soát ra ngoài phạm vi trách nhiệm của trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng tiếp ứng. Một lực lượng xung kích 20000 quân được thành lập bắt đầu từ tháng Mười Một 1963 và hoàn tất vào tháng B ẩy năm 1964. Mỗi đại đội DSCĐ có 150 người gồm bộ chỉ huy 10 người và ba trung đội khinh binh 35 người, trung đội súng nặng 35 người. Mỗi trại có quân số bốn đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài từ những căn cứ tiền phương, tung các trung đội và các toán viễn-thám năm người ra hoạt động.
Vào tháng Giêng 1965, trước khi Hoa Kỳ đem thêm quân vào chiến trường miền nam. Kế hoạch chống xâm nhập được xác định rõ ràng gửi đi từ bộ chỉ huy liên đoàn 5 LLĐB/HK tới các BCH B và các toán A như sau: Định nghiã: Kế hoạch chống xâm nhập của LLĐB là một chương trình hỗn hợp quân sự và dân sự vụ, được tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây:
Loại trừ Việt cộng, thiết lập vùng an ninh.
Bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền quốc gia đối với dân trong vùng.

Động viên những người dân hăng hái, sẵn sàng tham gia trong các chương trình của chính quyền quốc gia.
Những mục tiêu nói trên có thể đạt được khi thi hành một trong ba nhiệm vụ sau:
Kiểm soát và theo dõi biên giới.
Hoạt động nơi các đường xâm nhập.
Hành quân nơi chiến khu, căn cứ của địch.

Bắt đầu từ năm này, quân cộng sản đã thay đổi chiến thuật từ du kích sang trận địa chiến. Các hoạt động của LLĐB được phân làm ba loại. Một, thiết lập thêm trại DSCĐ nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp vận của địch, bỏ một số trại do áp lực quá nặng của địch và phòng thủ các trại dọc theo biên giới như A Shau, Lang Vei, Cồn Thiên, Lộc Ninh, Bù Đốp.
Thứ hai, mở các cuộc hành quân ngoại lệ như hành quân Delta trong vùng I chiến-thuật. Hành quân Black Jack 33 ở vùng III, trong kế hoạch hành quân Sigma. Đây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn-vị du kích lưu-động và đơn vị xung kích tiếp ứng. Hành quân Black Jack 41, hai đại đội xung kích lưu động nhẩy dù xuống tấn công căn cứ địch trong vùng núi Thất Sơn dưới vùng IV.
Một đơn vị xung kích khác tảo thanh nơi Suối Đá trong vùng III, loại khỏi vòng chiến một tiểu đoàn Việt cộng trong hành quân Attleboro. Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chính quy bạn. Hành quân Nathan Hale phối hợp giữa DSCĐ, sư đoàn 1 Không Kỵ và sư đoàn 101 Nhẩy Dù Hoa Kỳ. Hành quân Henry Clay và Thayer. Hành quân Rio Blanco ở vùng I bao gồm các đơn vị thuộc DSCĐ, Điạ Phương Quân, Biệt Động Quân Việt Nam, Thuỷ Quân Lục Chiến Đại Hàn, và TQLC/HK. Hành quân Sam Houston trên vùng II phối hợp giữa sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ và DSCĐ.

IV. HÀNH QUÂN NGOẠI LỆ.
Với sự thành lập các đơn vị du kích lưu động và hành quân Sigma, Omega trong thời gian từ tháng Tám cho đến tháng Mười năm 1966, khả năng về Chiến Tranh Ngoại Lệ của LLĐB gia tăng. Một trong những đặc tính của LLĐB là khả năng mở các cuộc hành quân ngắn hoặc lâu dài nơi vùng địch kiểm soát.
Lực lượng Du Kích Lưu Động được thành lập vào mùa thu năm 1966, cải tiến và phát triển từ quan niệm về đơn vị xung kích lưu động. Những đơn vị du kích này được tổ chức, huấn luyện và trang bị để hoạt động xa, nơi Việt cộng hoặc Bắc quân xem như thiên đàng. Trang bị nhẹ, các quân nhân thuộc đơn vị này xâm nhập vào vùng địch, do thám đường mòn, tìm kiếm dấu vết, căn cứ địch, thâu lượm tin tức tình báo về những cuộc chuyển quân của địch. Khi phát giác ra nơi đóng quân của địch, toán du kích sẽ theo dõi các hoạt động của địch, phục kích lẻ tẻ, quấy rối, đặt mìn bẫy.
Trường hợp tìm thấy kho tiếp liệu, toán sẽ tìm cách phá hủy hoặc hướng dẫn phi cơ oanh kích.
Một đơn vị du kích thường được đưa vào vùng hoạt động bằng tất cả mọi phương tiện có sẵn. Khi đã vào vùng địch kiểm soát, đơn vị thực sự trở nên du kích quân. Đồ tiếp tế được thực hiện qua không trợ. Đơn vị này thường hoạt động trong lòng địch một thời gian từ ba mươi đến sáu mươi ngày. Họ trở thành những “Chủ nhân ông” trong khu vực hoạt động, được toàn quyền hành động kể cả vấn đề không trợ, để đạt mục tiêu. Để tránh bị lộ hành tung, đôi khi phải cho đồ tiếp tế vào bom Napalm giả do khu trục cơ A1E Skyraider thả xuống trong một phi vụ oanh kích gỉa tạo.
Ngoài việc phát triển đơn vị du kích cho mỗi vùng chiến thuật. Liên đoàn 5 LLĐB/HK còn tổ chức thêm những cuộc hành quân ngoại lệ khác như hành quân Omega và Sigma. Hai tổ chức hành quân trên làm tăng thêm khả năng viễn thám, thâu lượm tin tức tình báo của liên đoàn ngoài chương trình hành quân Delta đã có sẵn. Mỗi tổ chức có quân số khoảng 600 người, gồm một đơn vị viễn thám và một đơn vị xung kích tiếp ứng, thêm một toán cố vấn tổ chức như BCH B của LLĐB.
Hành quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy hỗn hợp LLĐB Việt Mỹ và theo lệnh trực tiếp của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và BCH Quân Viện Hoa Kỳ (MAC-V). Các toán hành quân Delta được tiểu đoàn 91 Biệt Cách Dù sẵn sàng làm lực lượng tiếp ứng yểm trợ. Các toán hành-quân Omega và Sigma được LLĐB trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và II chiến thuật. Các toán này được các đơn vị xung kích lưu động thuộc lực lượng DSCĐ yểm trợ.

V. HUẤN LUYỆN VÀ KHÔNG TRỢ.
Chương trình huấn luyện cho các cuộc hành quân ngoại lệ trước hết là phần huấn luyện về bộ binh, kỹ thuật tác chiến trong vùng Đông Nam Á. Những quân nhân được tuyển chọn cho hành quân ngoại lệ thường đã trải qua thời gian phục vụ trong lực lượng DSCĐ và đã có kinh nghiệm chiến đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân ngoại lệ bắt đầu từ giai đoạn này. Đầu tiên là phải qua khóa huấn luyện nhẩy dù, sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di chuyển lặng lẽ, bí mật, phương pháp tìm dấu vết, theo dõi, cách xử dụng bản đồ, điạ bàn, dụng cụ làm dấu, những kỹ thuật xâm nhập, triệt thoái vùng thám sát, hoạt động, xử dụng các loại vũ khí đặc biệt, cứu thương, kỹ thuật đột kích, phục kích.
Chương trình huấn luyện kéo dài năm hay sáu tuần lễ, sáu ngày một tuần và khoảng mười tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các buổi huấn luyện trong căn cứ và thực tập ngoài bãi tập.
Vấn đề hành quân ngoại lệ rất cần phần không trợ. Phi đoàn không yểm thuộc lục quân Hoa Kỳ biệt phái cho liên đoàn 5 LLĐB đã yểm trợ trực tiếp bằng những trực thăng võ trang và chuyển vận. Ngoài ra Không Lực Hoa Kỳ cung cấp phương tiện chuyển vận, đổ quân cấp đơn vị lớn và về tiếp liệu. Không Lực Hoa-Kỳ và Việt Nam còn yểm trợ thêm về phần oanh kích hoặc chuyển tiếp công điện qua hệ thống truyền tin. Ngoài vùng I chiến thuật, máy bay của Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự.

VI. SOẠN THẢO KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN.
Chiến tranh ngoại lệ là một vai trò rất quan trọng của LLĐB trên chiến trường nam Việt Nam. Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên kỹ lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham dự được di chuyển đến căn cứ tiền phương trước khi ra tay. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tuỳ theo mỗi loại hành quân và độ khẩn của cuộc hành quân.
Soạn thảo lệnh hành quân bắt đầu với đầy đủ chi tiết tình báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về điạ thế, thời tiết và những nơi tình nghi có quân địch đều được thâu thập và phân tích. Tất cả những chi tiết đó đều được ghi trên bản đồ, những lộ trình chính và phụ cho nhiệm vụ trinh sát đều được chọn lựa và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình báo, không ảnh, thẩm vấn tù binh, và những bản báo cáo của các đơn vị bạn đã hành quân qua trước đây. Nếu cần, ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân bay những phi vụ thám thính khu vực hoạt động trước. Những chuyến bay này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn điểm xâm nhập, triệt xuất, chính và phụ.
Khi việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân, trường hợp cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương đã có không yểm. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít vật liệu, phi cơ trực thăng của lục quân, TQLC/HK hoặc phi cơ nhỏ được xử dụng. Nếu cuộc hành quân với quân số cấp đại đội hoặc lớn hơn sẽ được Không Lực Hoa-Kỳ cung cấp với loại phi cơ vận tải C-7A hoặc C-130.
Khi đến căn cứ hành quân tiền phương, đơn vị sẽ bị thanh tra để có thể trong vị thế sẵn sàng. Các sĩ quan thuộc quyền sẽ được nghe thuyết trình về mục đích, nhiệm vụ của cuộc hành quân cùng vớí mệnh lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu đội hoặc các toán.

Trong những nhiệm vụ thám sát, các phương pháp, thủ tục cho mỗi hoạt động sẽ được trình bầy chi tiết tùy theo cuộc hành quân. Khi vào vùng địch, lúc ra khỏi phi cơ, di chuyển trong khu vực hành quân, trường hợp chạm địch, và giờ giấc cho vấn đề triệt xuất.
Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố bất ngờ. Thêm vào phần an ninh của toán biệt kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa địch quân. Lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong các cuộc hành quân. Tùy theo tình hình, thời tiết, mùa màng và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, không hoặc thủy. Tuy nhiên trên chiến trường Việt Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, triệt xuất đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.
Kinh nghiệm cho biết, thời gian hữu hiệu nhất để thả toán xâm nhập vào lúc trời sắp tối, đủ thì giờ cho toán lẩn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đen. Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp thả toán của ta và tìm cách đối phó. Do đó phải đánh lừa địch về điểm thả quân, trực thăng sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa trước khi thực sự thả toán. Điều này làm cho địch phân vân không biết đâu là điểm thả quân một cách chính xác. Một phương pháp khác là đoàn trực thăng ba chiếc bay thấp, nối đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt kích trong chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi hai chiếc kia làm thành hợp đoàn ba chiếc trở lại.
Trong trường hợp thả toán bằng đường bộ, các toán “Chạy đường mòn” (Roadrunner), viễn thám xâm nhập vùng địch dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày, trong trường hợp căn cứ vẫn thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một phương hướng nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen vào với một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán biệt kích lặng lẽ di chuyển đến vùng hoạt động đã được trao phó nhiệm vụ từ trước. Tất cả mọi sự di chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống còn của một toán viễn thám nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán. Sự hiểu biết về nhiệm vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời khóa biểu lúc di chuyển.
Trong kế hoạch hành quân đôi khi có dặn dò thêm trường hợp toán phải phân tán tạm thời trước áp lực của địch, thời gian, vị trí của điểm hẹn, tập-họp. Bí mật là đặc tính căn bản trong vấn đề di chuyển của các đơn vị hành quân ngoại lệ. Mặc dầu địch cũng đề phòng về sự hiện diện của biệt kích quân, điều quan trọng là địch vẫn không biết rõ vị trí chính xác của toán. Mọi di chuyển phải im lặng, bàn tay và thủ hiệu được xử dụng để truyền tin và ban lệnh thay cho lời nói, ít xử dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu, súng đạn đồ trang bị gọn gàng không gây tiếng động khi chạm vào cây lá hoặc đá và tuyệt đối giữ im lặng khi di chuyển.
Về vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra, các quân nhân trong chiến tranh ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn, đạn dược và vật dụng quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân cũng nói đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ ba đến năm ngày tại một địa điểm định trước. Vấn đề đặt ra là sự an toàn, không để lộ vị trí của toán. Thả dù tiếp tế ban ngày sẽ làm cho địch báo động, đề phòng. Thả ban đêm trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất ít.

Triệt xuất theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay bị thương, cả toán cũng phải tính trước. Lực Lượng Đặc biệt rất thành công từ lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo hoạch định, hết thời gian, ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán “Chạy đường mòn”, viễn thám rất dễ bị địch tiêu diệt do đó nhân viên trong bộ chỉ huy có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của toán biệt kích, phải chuẩn bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất toán trong vùng địch ngay tức khắc khi nhận được báo cáo “khẩn”.

VII. CÁC CĂN CỨ / BỘ CHỈ HUY LỰC LƯỢNG ĐẶC-BIỆT.
B-50 LLĐB (HÀNH QUÂN OMEGA).
Dựa trên sự thành công của các cuộc hành quân Delta và nhu cầu chiến trường, bộ chỉ huy B-50 Lực Lượng Đặc Biệt tổ chức chương trình hành quân Omega vào tháng Bẩy năm 1966 và đặt tại Nha Trang. Hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân viễn thám, thâu thập tin tức tình báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực thuộc bộ Tổng Tham Mưu và bộ tư lệnh Quân Viện Hoa Kỳ, hành quân Omega được thực hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng Chín năm 1967.

B-50 LLĐB tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ lạc người Jah, Rhade và Sedang, người gốc Chàm và Tầu. Ban đầu gồm có tám toán viễn thám và bốn toán “Chạy đường mòn”, sau đó tăng lên mười sáu toán viễn thám và tám toán “Chạy đường mòn”. Trong năm 1968, các toán “Chạy đường mòn” thuyên chuyển qua B-57 LLĐB, tiếp tục các hoạt động tuần tiễu lấy tin tức. Hành quân Omega có ba đại đội xung kích làm thành phần tiếp ứng, trừ bị. Bộ chỉ huy B-50 chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng Sáu năm 1972.

B-51 LLĐB TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN ĐỘNG BA THÌN.
Động Ba Thìn là trung tâm huấn luyện của QLVNCH. Đến năm 1964, bộ chỉ huy B-51 LLĐB đến cố vấn cho chương trình huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương trình huấn luyện được cải tiến theo thời gian, khóa căn bản LLĐB Việt Nam, khóa học nhẩy dù của LLĐB, huấn luyện cho DSCĐ, võ Tae Kown Do Đại Hàn, truyền tin và các khóa huấn luyện khác.

Năm 1968, B-51 LLĐB dời các khóa huấn luyện đi An Khê, nhưng đến tháng Mười 1969 quay trở lại Động Ba Thìn và căn cứ được gọi là trung tâm huấn luyện quốc gia. Sau đó B-51 được bộ chỉ huy Quân Viện giao cho nhiệm vụ huấn luyện quân đội Campuchia. Bộ chỉ huy B-50 LLĐB rời Việt Nam tháng Ba năm 1971.

B-52 LLĐB HÀNH QUÂN DELTA.
Vào tháng Năm 1964, cơ quan tình báo CIA khởi đầu chương trình Leaping Lena dùng LLĐB/HK huấn luyện cho LLĐB/VN và lực lượng DSCĐ trong những nhiệm vụ thám sát thâu thập tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu cầu về nhân lực của LLĐB/HK tăng lên cho đến tháng Sáu năm 1965, khi liên đoàn 5 LLĐB/HK được giao phó thêm trách nhiệm và bộ chỉ huy B-52 được thành lập để chỉ huy và theo dõi các hoạt động viễn thám. Chương trình này được gọi là hành quân Delta, mỗi toán thường gồm có hai quân nhân LLĐB/HK và bốn LLĐB/VN, ngoại trừ các toán “Chạy đường mòn” có từ bốn đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang bị như quân cộng sản hoạt động trong vùng địch kiểm soát.

Bộ chỉ huy B-52 vẫn thường thay đổi lề lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu cầu đòi hỏi, mới đầu chỉ có mười hai toán viễn thám LLĐB Việt Mỹ và mười hai toán DSCĐ “Chạy đường mòn”, một đại đội phòng thủ người Nùng và tiểu đoàn 81 Biệt Cách Dù với năm đại đội làm đơn vị xung kích tiếp ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hành quân Delta gồm có: Xác định vị trí đơn vị địch, thâu thập tin tức tình báo chiến lược, thẩm định sự tàn phá cho các trận thả bom, lùng và diệt địch, đột kích và phá hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt trận chiến.
Đến năm 1966, chương trình Delta làm việc trực tiếp với bộ chỉ huy Quân Viện (MACV), thi hành những sứ mạng trên khắp Việt Nam. Cũng trong năm này hai chương trình khác, Sigma và Omega được phát triển với nhiệm vụ tương tự, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II chiến thuật. Bộ chỉ huy B-52 còn được MACV giao cho nhiệm vụ huấn luyện lính Hoa Kỳ về kỹ thuật viễn thám. B-52 đồn trú tại Nha Trang cho đến tháng Sáu năm 1970 khi chương trình Delta chấm dứt.B-53 NHÓM CỐ VẤN HÀNH QUÂN ĐẶC BIỆT.
Bộ chỉ huy B-53 được chính thức thành lập tại Việt Nam vào tháng Hai năm 1964. Lúc đó đặt trong căn cứ huấn luyện LLĐB Việt Nam ở Long Thành. Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của đơn vị được đề cao và bảo trợ bởi đơn vị Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) thuộc bộ chỉ huy Quân Viện (MACV-SOG).
Khi liên đoàn 5 LLĐB/HK rời Việt Nam năm 1971, vấn đề huấn luyện quân Việt Nam về chiến tranh ngoại lệ vẫn cần thiết. B-53 LLĐB trở thành hạt nhân cho chương trình này và vào tháng Giêng năm 1971 được gọi là nhóm Cố Vấn Sứ Mạng Đặc Biệt (SMAG). Nhóm mới thành lập này, lúc đầu di chuyển đến trường huấn luyện viễn thám (MACV RECONDO), sau đó lấy bộ chỉ huy liên đoàn 5 LLĐB làm bộ chỉ huy vào tháng Ba.

Nhiêm vụ của nhóm cố vấn này là huấn luyện, cố vấn và phụ giúp cho đơn vị Dịch Vụ Sứ Mạng Đặc Biệt (Special Mission Service – SMS) của Việt-Nam, đơn vị này là tiền thân của LLĐB/VN trong chiến tranh ngoại lệ. Vào tháng Chín năm 1971, đơn vị SMS được lệnh làm việc với đơn vị 1, Sở Liên Lạc QLVNCH đóng tại Đà Nẵng, hậu thân của bộ chỉ huy Bắc (Sở Bắc) của nhóm Nghiên Cứu, Quan Sát MACV (MACV-SOG). Cho đến tháng Ba năm 1972, trong vòng mười một tháng, nhóm Cố Vấn Sứ Mạng Đặc Biệt (SMAG) hoàn tất việc huấn luyện cho 27 toán hoạt động và 15 toán viễn thám. Nhóm cố vấn này chấm dứt nhiệm vụ vào tháng Tư năm 1972 và bộ chỉ huy B-53 rời Việt Nam.

B-55 TOÁN LIÊN LẠC TẠI SAIGON.
Với sự hiện diện của LLĐB/HK từ năm 1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc gần bộ chỉ huy Quân Viện Hoa Kỳ tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn thảo, huấn luyện và chuyển những tin tức tình báo. Đó là nhiệm vụ của toán Liên Lạc LLĐB B-55, thường được gọi là Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơ quan này làm nhiệm vụ giải đoán tin tình báo. Được huấn luyện, hướng dẫn bởi ban Cố Vấn Kỹ Thuật hỗn hợp (JTAD) và phối hợp với ban Nghiên Cứu hỗn hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG) hoạt động, B-55 làm nhiệm vụ phối hợp giữa hai tổ chức LLĐB tại Việt-Nam.

Là cơ quan liên lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ tục giấy tờ cho các quân nhân LLĐB/HK tại Việt Nam. Tham dự các buổi họp, thuyết trình giữa các bộ chỉ huy, tuyển mộ lính đánh thuê. Vào ngày 23 tháng Năm 1968, B-55 đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực Lượng 5 Xung Kích Lưu Động (Mike Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường về Hoa Kỳ vào năm 1970.

B-56 HÀNH QUÂN SIGMA.
Khi mức độ chiến trường leo thang, nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi qúa nhiều, đặt nặng vấn đề cho chương trình Delta. Liên đoàn 5 LLĐB/HK thành lập bộ chỉ huy B-56 vào tháng Tám 1966 để phụ trách chương trình hành quân Sigma đặt căn cứ trong trại Hồ Ngọc Tảo. Hành quân Sigma được tổ chức tương tự như những chương trình thám sát khác, gồm có tám toán viễn thám và ba đại đội xung kích tiếp ứng. B-56 ít tuyển mộ người Thượng, dùng lính đánh thuê người Nùng hoặc Miên. Những toán “Chạy đường mòn” của chương trình Sigma được chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm 1967.

Sigma tham gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách nhiệm hoạt động. Thường làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành quân, đôi khi xử dụng lực lượng cơ hữu của Sigma phối hợp với lực lượng tiếp ứng Mike Force.
Đến tháng Mười Một 1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự kiểm soát của MACV và thuộc quyền xử dụng của viên tư lệnh Quân Đoàn II. Trong năm 1969, B-56 dời đi Ban Mê Thuột, cuối cùng trở lại Hoa Kỳ vào tháng Năm 1971.

B-57 CHƯƠNG TRÌNH GAMMA.
Từ khi có nhiều đơn vị trinh sát, viễn thám hoạt động trên chiến trường Việt Nam, nhu cầu giải đoán những nguồn tin tình báo thâu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào tháng Sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương trình Gamma được thành lập. Bộ chỉ huy đặt tại Saigon, B-57 có nhân viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III, và IV. B-57 đặc biệt tuyển mộ, điều hành những người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động trong vùng địch. Để trợ giúp nhân viên tình báo của LLĐB, lục quân Hoa Kỳ biệt phái một số chuyên viên tình báo gọi là nhóm Cố Vấn Kỹ Thuật Hỗn Hợp. Tổ chức này đã hoạt động hơn một năm và đã thiết lập một hệ thống gián điệp nằm vùng, có sẵn những nguồn tin tình báo. B-57 còn giữ sự liên hệ mật thiết với các cơ quan khác của chính quyền nhằm mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động tình báo. Chương trình Gamma chấm dứt vào tháng Ba năm 1970, khi B-57 rời Việt-Nam.

TRƯỜNG VIỄN THÁM (RECONDO SCHOOL).
Khi chương trình hành quân Delta tăng thêm quân số, nhu cầu huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu thám sát được đặt ra. Vào tháng Năm 1964, chương trình Delta bắt đầu huấn luyện trong phạm vi căn cứ tại Nha Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn vị bắt đầu nghe đến khóa huấn luyện viễn thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi cơ quan MACV được báo cáo kết qủa tốt đẹp của việc huấn luyện, ra chỉ thị cho liên-đoàn 5 LLĐB đảm trách về khóa học.
Ngày 15 tháng Chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường huấn luyện Viễn Thám MACV với ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52. Khóa học dài ba tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần tiễu, trinh sát. Khóa sinh phải đầy đủ sức khỏe, đã ở Việt Nam tối thiểu một tháng và còn sáu tháng phục vụ. Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các toán A LLĐB, các đại đội Biệt Động Quân, các toán viễn thám và các đơn vị trinh sát khác.

Sau này trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến đấu cho các quân nhân LLĐB/HK mới đến Việt Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng Mười Một năm 1970.

LỰC-LƯỢNG DU KÍCH LƯU ĐỘNG.
Ý tưởng về Lực Lượng Du Kích Lưu Động (MGF) dựa trên quan niệm đặt những đơn vị sâu trong vùng địch kiểm soát trong một khoảng thời gian, nhằm khuấy phá căn cứ và các hoạt động của địch. Bắt đầu từ năm 1966, đơn vị Du Kích Lưu Động gồm có một toán A LLĐB và một đại đội 150 người DSCĐ hoặc Mike Force, đã được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu lâu dài và một trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh hiệu Blackjack, những đơn vị này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp tế bằng phương tiên thả dù. Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn vị đặc nhiệm 777 gồm 15 quân nhân LLĐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại đội xung kích Mike Force và một đại đội Du Kích Lưu Động. Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội du kích 957.

Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong năm sau, cuối cùng các đại đội Du Kích kết hợp với các đại đội xung kích Mike Force thành đơn vị cấp tiểu đoàn Xung Kích Lưu Động.

LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH LƯU ĐỘNG (Mobile Strike Force).
Mặc dầu các trại LLĐB đều có lực lượng xung kích cơ hữu để trả đủa tức thời, tuy nhiên vẫn phải có thêm lực lượng tiếp ứng khác đặt dưới quyền điều động trực tiếp của LLĐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại LLĐB trước áp lực nặng nề của địch. Một quyết định được tiến hành vào tháng Sáu năm 1966, thành lập một đơn vị trừ bị cho mỗi quân khu và đặt trực thuộc bộ chỉ huy LLĐB quân khu (Bộ chỉ huy C). Các tiểu đoàn tiếp ứng được huấn luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa thu 1966. Mới đầu gọi là Lực Lượng Trừ Bị Lưu Động, sau trở thành “Mike Force” (Mobile Reaction Forces – MRF). Năm 1967, tên gọi chính thức cho các đơn vị trên là Lực Lượng Xung Kích Lưu Động (Mobile Strike Force – MSF), mỗi quân khu đều có một đơn vị riêng và đơnvị thứ năm được thành lập xử dụng cho bốn quân khu.

Mặc dầu dự định là một đơn vị trừ bị đa dụng, đơn vị xung kích trước tiên được xử dụng như lực lượng bảo vệ căn cứ. Mỗi đại đội có 184 người, được tổ chức như đơn vị chính quy trang bị súng cộng đồng. Những đại đội này được gom lại thành tiểu đoàn 552 người. Tiểu đoàn xung kích thường có thêm đại đội trinh sát 135 người và bộ chỉ huy, đại đội công vụ 227 người. Nhiệm vụ chính là giải vây cho các trại LLĐB, trong năm đầu, lực lượng xung kích phối hợp với lực lượng du kích trong nhiều cuộc hành quân. Về sau thường được xử dụng tiếp ứng cho toán Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV – SOG) khi khẩn cấp. Đến năm 1967, lực lượng du kích sát nhập vào lực lượng xung kích và hoạt động cho đến khi LLĐB/HK bàn giao cho QLVNCH.

Chiến đoàn 1 Xung Kích trực thuộc B-16 LLĐB, thành lập vào tháng Hai 1966 và đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C1/LLĐB tại Đà Nẵng. Trong 5 năm hoạt động trên chiến trường vùng I, chiến-đoàn 1 Xung Kích gồm có hai tiểu đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ. 

Chiến đoàn 2 Xung Kích trực thuộc B-20 LLĐB ở Pleiku, B-23 ở Ban Mê Thuột và B-24 trên Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C2/LLĐB trách nhiệm trên lãnh thổ quân khu II. Trong 5 năm hoạt động, chiến đoàn 2 Xung Kích gồm có năm tiểu đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ.

Chiến đoàn 3 Xung Kích thành lập vào tháng Mười Một năm 1967 và đặt dưới quyền điều động của bộ chỉ huy C3/LLĐB, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu III. Bộ chỉ huy B-36 LLĐB chỉ huy trực tiếp chiến đoàn 3 Xung Kích gồm có ba tiểu đoàn, đại đội trinh sát, bộ chỉ huy cùng đại đội công vụ. Vào cuối năm 1970, chiến đoàn dược chuyển giao cho QLVNCH, B-36 trở về Hoa-Kỳ tháng Hai năm 1971.

Chiến đoàn 4 Xung Kích trực thuộc B-40, bộ chỉ huy C4/LLĐB gồm có ba tiểu đoàn, đại đội trinh sát, đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, bộ chỉ huy cùng đại đội công vụ. Mới đầu chịu trách nhiệm trên quân khu IV đến tháng Tám năm 1969, đặt dưới quyền điều động của Biệt Khu 44. Bắt đầu từ tháng Năm 1970, chiến đoàn được bàn giao cho QLVNCH, B-40/LLĐB/HK về nước tháng Mười Hai năm 1970.

VIII. ĐOÀN NGHIÊN CỨU, QUAN SÁT (MACV – SOG).
Liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát thuộc bộ chỉ huy Quân Viện (MACV – SOG) là một đơn vị tuyệt đối cho các hành quân đặc biệt. Ngay từ lúc khởi đầu, danh hiệu Nghiên Cứu, Quan Sát (đôi khi gọi là Hành Quân Đặc Biệt) được dùng làm tên che mắt (Code name – Danh hiệu) cho các cuộc hành quân tối mật về tình báo.
Cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA đã từ lâu yểm trợ cho các dịch vụ bí mật của chính quyền VNCH cho đến năm 1963, lúc đó cơ quan trở thành bộ chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam và thực hiện những cuộc hành quân đặc biệt. Cường độ chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt động tăng lên. LLĐB/VN phát triển trở thành Sở Khai Thác Đặc Biệt. Vào ngày 16 tháng Giêng năm 1964, bộ chỉ huy mới Liên Đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát được thành lập trong Chợ Lớn cho các cuộc hành quân đặc biệt. Năm 1966, bộ chỉ huy MACV-SOG dời ra Saigon, bộ phận Bộ đóng trong phi trường Tân Sơn Nhất, bộ phận Không Yểm dời ra Nha Trang, và bộ phận Hải Yểm đóng ngoài Đà Nẵng.
Các sứ mạng của MACV-SOG nhắm trực tiếp vào những nơi địch kiểm soát trong miền nam Việt Nam, và vượt biên sang đất Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung Hoa. Những nhiệm vụ đặc biệt bao gồm việc thu thập tin tức tình báo chiến lược, phá hoại đường giao liên, tiếp vận của địch, chiến tranh tâm lý, cứu tù binh và phát triển phong trào kháng chiến chống lại chính quyền, v.v… Những nhiệm vụ thám sát của liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG) được chọn lựa kỹ càng và những bản báo cáo sau chuyến xâm nhập thường được gửi về Ngũ Giác Đài (bộ Quốc Phòng HK), để đánh gía và phân phối đi.
Năm 1967, MACV-SOG được tổ chức lại đơn vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng, Trung (CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban Mê Thuột. Những bộ chỉ huy này được tổ chức bằng cách gom lại một số căn cứ hành quân tiền phương (FOB), mà trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú Bài (Huế), Kontum, Khe Sanh, Non Nước, Ban Mê Thuột và trại Hồ Ngọc Tảo. Bộ phận (Sở) Bộ gồm hơn 1600 quân LLĐB/HK, chia ra hơn 70 toán thám sát và 8000 quân LLĐB Việt Nam (Lôi Hổ).
Cách tổ chức cuả liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG) cũng gần như song song với tổ chức của Lực Lượng Đặc Biệt với các toán xâm nhập tương đương với các toán A LLĐB, căn cứ hành quân tiền phương tương đương với bộ chỉ huy B LLĐB, các bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các bộ chỉ huy C LLĐB.
Bộ phận (Sở) Không Yểm bao gồm phi đoàn 90 Hành Quân Đặc Biệt (SOS) của Không Lực Hoa Kỳ, đóng tại Nha Trang, cung cấp máy bay C-130. Phi đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, các đơn vị phụ thuộc đóng trên Ban Mê Thuột, Đức Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng yểm trợ. Ngoài ra MACV-SOG còn có đơn vị trực thuộc là phi đoàn Đệ Nhất (First Flight) đóng rải rác khắp nơi và Thái Lan.
Bộ phận Hải Yểm đóng ngoài Đà Nẵng gồm có đơn vị biệt kích (SEALs) của Hải Quân Hoa Kỳ, các siêu tốc đỉnh và các toán Người Nhái, phá hoại dưới nước thuộc Hải Quân Việt Nam.
MACV-SOG còn có một trung tâm huấn luyện và đơn vị xâm-nhập bằng dù ở Long Thành. Đơn vị này gồm các quân nhân Việt Nam, được thả vào vùng địch bằng phương tiện nhẩy dù.
Cơ quan MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ ngày 30 tháng Tư 1971 và chương trình được giao cho toán Yểm Trợ Nha Kỹ Thuật 158 (STDAT). Một số quân Bộ đã chuyển qua nhóm Cố Vấn Hành Quân Đặc Biệt từ tháng Ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm vụ vào ngày 12 tháng Ba năm 1972. Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực Lượng Đặc Biệt.
https://dongsongcu.files.wordpress.com/…/16e40-doan72nhatra…

BỘ CHỈ HUY (CCN) SỞ BẮC.
Bộ chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 01 tháng Mười Một năm 1967 tại Đà Nẵng với ba bộ chỉ huy tiền phương 1 tại Phú Bài, bộ chỉ huy tiền phương 3 tại Khe Sanh và bộ chỉ huy tiền phương 4 tại Non Nước. Quân nhân thuộc Liên-đoàn 5 LLĐB/HK và ban cố vấn Hải Quân.

Các hành quân vượt biên do BCH Bắc tổ chức nhắm vào miền bắc Việt-Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh hiệu Shining Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá hoại đường dây xâm nhập người và vật liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ Thuật cuộc hành quân lấy tên là Phù Dung.
Như tất cả các cuộc hành quân thám sát, BCH Bắc cũng có đơn vị tiếp ứng gọi là đơn vị Cảm Tử Đặc Biệt. Ngoài ra còn thiết lập những căn cứ hành quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính vẫn là trinh sát, thâu thập tin tức tình báo chiến lược.


BỘ CHỈ HUY (CCC) SỞ TRUNG.
Bộ chỉ huy này đóng trên Kontum gồm quân của liên đoàn 5 LLĐB/HK, có thời gian được xem như phần nới rộng hành quân của LĐ 5 LLĐB. Khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy Trung là tam giác Lào, Miên và Việt. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại căn cứ, kho tiếp liệu che dấu của quân cộng sản Bắc Việt, đặc biệt trong vùng đông bắc Campuchia. Trong Bộ chỉ huy Trung có tất cả 30 toán thám sát, mỗi toán gồm 3 quân nhân LLĐB/HK và chín quân nhân Việt Nam. Ngoài ra còn có bốn đại đội khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám sát cung cấp trong các cuộc hành quân lùng và diệt.


BỘ CHỈ HUY (CCS) SỞ NAM.
Bộ chỉ huy này được thành lập vào tháng Mười Một năm 1967 đồn trú tại Ban Mê Thuột. Bộ chỉ huy này nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính nơi đồng bằng Cửu Long và Campuchia. Đơn vị gồm có một số toán thám sát và bốn đại đội khai thác. Do địa thế dưới vùng đồng bằng, các đại đội khai thác thường xử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa Kỳ trong đơn vị này chấm dứt vào tháng Giêng năm 1973, tất cả các đơn vị Hoa Kỳ trở về nước.


IX. ĐOẠN KẾT.
Trong chiến tranh Việt Nam, rất nhiều giai thoại nói về binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Nhưng ít người hiểu biết tường tận, ngay cả đến những quân nhân phục vụ trong ngành LLĐB. Điều này không nên lấy làm lạ vì đó là đặc tính căn bản (sống chết) của LLĐB… “BÍ MẬT”. Nhiều đơn vị có tên nghe rất lạ: Lôi Hổ, Thám Sát, Sở Công Tác, Liên Lạc, Biệt Kích v. v… Đối với quân đội Hoa Kỳ, các quân nhân LLĐB được coi như những chiến sĩ can trường, được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Trong QLVNCH, binh chủng LLĐB Việt Nam gồm những chiến sĩ can đảm, gan lì, đôi khi hơi bí mật… Họ là những “Bóng ma biên giới” đối với quân cộng sản. Binh chủng LLĐB đã đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền Nam tự do của chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu của họ cũng thầm-lặng… bí mật.




















Video